20/03/2018
Đó là nghiên cứu do TS- BS Vương Thị Ngọc Lan (bộ môn Phụ sản Trường ĐH Y Dược TP.HCM) và các cộng sự tại Bệnh viện Mỹ Đức thực hiện. Nghiên cứu vừa được đăng tải vào ngày 11/1 trên Tạp chí Y khoa New England (NEJM) – một trong những tạp chí y khoa có uy tín và có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay trên thế giới.
Tiến sĩ Ngọc Lan cho biết, mỗi năm trên thế giới ước tính khoảng 1,5-2 triệu cặp vợ chồng làm thụ tinh ống nghiệm. Mỗi trường hợp đều được đặt ra câu hỏi nên chuyển phôi tươi hay trữ đông lạnh rồi sau đó mới rã đông để chuyển. Nhiều chuyên gia trên thế giới vẫn đang loay hoay đi tìm lời giải nên chọn phương pháp nào sẽ hiệu quả.
Trước đây, các trung tâm có xu hướng chuyển phôi tươi nhưng sau đó một số báo cáo cho thấy nhiều trường hợp không tốt, tỷ lệ có thai giảm. Một số nơi có xu hướng chuyển sang đông lạnh phôi toàn bộ để hy vọng cải thiện kết quả. Tuy nhiên, việc đông lạnh phôi toàn bộ lại làm tăng chi phí và làm trì hoãn cơ hội có thai của người bệnh thêm vài tháng.
“Nghiên cứu mới này của chúng tôi cho thấy rằng nhóm bệnh nhân hiếm muộn (không thuộc nhóm hội chứng buồng trứng đa nang) có được tỷ lệ thai sống cao tương đương khi sử dụng phôi đông lạnh. Đây cũng là thông tin rất quan trọng đối với phụ nữ hiếm muộn trên thế giới” – TS. Lan nói.
Phát hiện này có thể khuyến khích các bác sĩ chỉ cấy một phôi mỗi lần, giúp giảm nguy cơ khi cấy nhiều phôi cùng lúc sẽ dẫn đến đa thai và các biến chứng liên quan.
Trước đó, một nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc khẳng định rằng phôi đông lạnh tốt hơn với phụ nữ mắc đa nang buồng trứng, “nhiều người đã đi đến kết luận rằng chúng ta nên sử dụng phôi đông lạnh. Một số chương trình trên thế giới sẽ không dùng phôi tươi nữa” – TS. Christos Coutifaris tới từ Trường Y khoa, ĐH Pennsylvania cho hay.
“Hiện tại, hai nghiên cứu tương đương nhau về quy mô và đều được thực hiện với những bệnh nhân không mắc đa nang buồng trứng. Chúng đều cho thấy không có gì khác biệt” – ông chia sẻ với Reuters. “Vì thế, việc áp dụng kết luận này theo hướng đông lạnh là tốt hơn có lẽ không đúng”.
TS. Lan cho biết, trước đây, các bác sĩ thường cấy nhiều hơn một phôi tươi vào tử cung phụ nữ vì lo ngại rằng việc làm tan băng phôi đông lạnh có thể không có hiệu quả tốt”.
Thực tế là “việc làm tan băng phôi đông lạnh mang lại tỷ lệ mang thai tương đương với ít biến chứng hơn và nó có thể làm thay đổi cách thức tiến hành TTON” – bà nói. “Sau khi phôi tươi đầu tiên được cấy vào, có thể làm đông lạnh các phôi còn lại và cấy từng phôi một sau đó nếu cần, mà không hề giảm cơ hội thụ thai”.
TS. Lan cũng cho biết thêm: “Kỹ thuật đông lạnh và chuyển phôi sau rã đông đang phát triển rộng rãi tại các trung tâm TTON trên khắp thế giới. Do đó, kết quả từ nghiên cứu này có vai trò rất quan trọng đối với các bác sĩ lâm sàng và các nhà nghiên cứu khoa học đang hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Và hơn hết, đây là thông tin rất quan trọng đối với các cặp vợ chồng mong con”.
Nhóm nghiên cứu do TS-BS. Vương Thị Ngọc Lan làm trưởng nhóm |
Nghiên cứu của nhóm được thực hiện trên phương pháp đông lạnh bằng kỹ thuật thuỷ tinh hoá Cryotech, là kỹ thuật đông lạnh phôi tiên tiến nhất hiện nay trên thế giới, tỉ lệ phôi sống sau rã đông là trên 99%. Do đó, theo TS. Lan, kết quả nghiên cứu có thể không phù hợp áp dụng cho tất cả các kỹ thuật đông lạnh phôi khác . Cần có thêm nghiên cứu để có thể so sánh được kết quả mang thai và tỷ lệ sinh bé giữa những kỹ thuật đông lạnh phôi khác nhau.
Khi nhóm nghiên cứu của bác sĩ Ngọc Lan đề xuất về ý tưởng thực hiện nghiên cứu, giáo sư Ben Mol và giáo sư Robert Norman, Đại học Adelaide, Australia rất ủng hộ và định hướng nên đầu tư công bố ở tạp chí uy tín nhất. Các bác sĩ Australia rất muốn thực hiện nghiên cứu này nhưng chưa thể triển khai do không có trung tâm thụ tinh ống nghiệm lớn, tập hợp được đông bệnh nhân và nhóm bác sĩ đủ tâm huyết như Việt Nam.
Sau gần 2 năm lên kịch bản, quy trình cụ thể, đầu năm 2015 các bác sĩ bắt đầu quá trình nghiên cứu trên 792 bệnh nhân. Kết quả cho thấy việc chuyển phôi tươi mang lại hiệu quả tương đương như đông lạnh phôi, chuyển phôi sau rã đông.
Bác sĩ Hồ Mạnh Tường, đồng tác giả nghiên cứu cho biết kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng. Cả hai phương pháp đều không làm thay đổi cơ hội có thai, nghĩa là không nên bắt buộc mọi người phải theo cách nào mà tuỳ từng trường hợp, hoàn cảnh có quyền chọn lựa phù hợp, giúp tăng sự linh động, giảm chi phí, cá thể hoá điều trị trong thực hiện ước mơ của các cặp vợ chồng mong con.
“Lúc trước nhiều người lo lắng sợ khi trữ đông phôi, phôi yếu đi không thể chuyển cho lần sau nên chuyển nhiều phôi tươi trong lần đầu, dẫn đến khả năng đa thai cao”, bác sĩ Tường phân tích. Với kết quả nghiên cứu này, sau chu kỳ chuyển phôi tươi đầu tiên, bệnh nhân có thể đông lạnh tất cả phôi còn lại và thực hiện chuyển sau đó một cách an toàn, hiệu quả. Người bệnh vẫn có gia tăng cơ hội có thai mà giảm được tối đa nguy cơ đa thai.
Sau 2 năm nghiên cứu, tháng 3/2017, các bác sĩ gửi báo cáo dài 200 trang tiếng Anh đến tạp chí The New England Journal of Medicine. Trải qua 3 vòng thẩm định sơ bộ, ban biên tập tạp chí đã gửi phần phản biện dài 14 trang, yêu cầu nhóm nghiên cứu bổ sung, giải thích nhiều vấn đề. Trải qua hơn 10 lần email trao đổi, chỉnh sửa kéo dài trong 10 tháng, nghiên cứu mới được tạp chí 200 năm tuổi này đồng ý công bố.
Giáo sư Ben Mol đánh giá cao khả năng thực hiện nghiên cứu của nhóm chuyên gia Việt Nam, góp phần mang lại lợi ích thiết thực bệnh nhân cũng như y bác sĩ trong lĩnh vực thụ tinh ống nghiệm thế giới. Nhiều chuyên gia quốc tế rất bất ngờ khi các bác sĩ Việt Nam có thể tự lực ghi tên vào bản đồ nghiên cứu khoa học thế giới.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, giảng viên Đại học New South Wales tại Australia, thành viên hội đồng xét duyệt tạp chí The New England Journal of Medicine cho biết đây là lần đầu tiên một tác giả Việt Nam tự chủ trì, lên ý tưởng, thực hiện nghiên cứu và công bố. Giáo sư Tuấn xem đây là niềm vinh dự và cú hích rất lớn của giới khoa học trong nước.
“Bác sĩ Việt không tốn kém nhiều kinh phí vẫn có thể tự lực thực hiện những nghiên cứu tầm quốc tế chất lượng rất cao”, giáo sư Tuấn đánh giá. Một vài nghiên cứu được công bố trước đây thường là do người Việt Nam sinh sống làm việc tại nước ngoài thực hiện, hoặc tác giả nước ngoài chủ trì như tại Đơn vị nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford đặt tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới (TP HCM).
Tiến sĩ Vương Thị Ngọc Lan hiện là Phó Chủ nhiệm Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP HCM. Bác sĩ Lan là tác giả và đồng tác giả 14 bài đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế, trong đó có NEJM, Human Reproduction, Fertility & Sterility, hơn 40 báo cáo trình bày tại các hội nghị khoa học khu vực và quốc tế. Các thành viên trong nhóm nghiên cứu đã công bố nhiều công trình trong khu vực và trên thế giới, hợp tác với nhiều trung tâm thuộc các trường đại học lớn. Tạp chí The New England Journal of Medicine đã hoạt động hơn 200 năm, được các nhà khoa học trên thế giới xem là “Kinh thánh” của y khoa, có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Các nghiên cứu được công bố trên này đều có tác động rất lớn, là “tiêu chuẩn vàng” của thực hành lâm sàng toàn thế giới. Mỗi tuần tạp chí xuất bản một số, mỗi số chọn đăng vài nghiên cứu do các nhà nghiên cứu từ nhiều quốc gia gửi đến. Tiêu chuẩn chọn bài để đăng hết sức gắt gao và khó khăn về cả hình thức lẫn nội dung với nhiều vòng thẩm định của các chuyên gia hàng đầu cùng ban biên tập. Trong bình trong 100 công trình được gửi đến thì chỉ 1-2 bài được chọn đăng. Do đó công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí này được xem là niềm tự hào với những người làm ngành y. Theo Vietnamnet.vn |